Friday, November 20, 2009

some methods used to manipulate earnings & cash flow (specially operating cash flow)

Với các khoản phải trả (account of payable ~ A/P)
Khoản phải trả làm fát sinh dòng tiền ra (cash out flow), ko ảnh hưởng đến earning nhưng rõ ràng ảnh hưởng đến operating CF. Có 2 cách manipulation đối với A/P:

  1. Kéo dài thời gian thanh toán: cách này dễ hiểu rồi, khỏi phải giải thích nhiều. 1 dấu hiệu cần chú ý là số ngày phải trả (days of A/P) tăng dần.
  2. Tài trợ cho A/P (financing): bank hoặc 1 financial intermediary sẽ thay cty trả nợ cho chủ nợ (vì A/P fát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh => chủ nợ thường là nhà cung cấp, bên bán nguyên vật liệu...). Nói cách khác: cty đã đi vay để thanh toán khoản phải trả => chủ nợ mới là bank/financial intermediary => dòng tiền của khoản Nợ bị thay đổi tính chất: từ operating chuyển sang financing. Nghĩa là bây giờ khi thanh toán principal + interest thì đây sẽ là financing cash out flow, chứ ko còn là operating cash out flow nữa.
 Với các khoản phải thu (account of receivables ~ A/R)
  1. Chứng khoán hóa các khoản phải thu: gộp các A/R lại, securitized rồi bán đi (thường là bán cho investment bank, đúng k nhở?). Mìh ko nhớ quá trình này loằng ngoằng ntn nhưng tóm lại cty sẽ đc ghi nhận 1 khoản GAIN & chưa có quy định là GAIN này để vào đâu, nên có cty sẽ ghi tăng Revenue, ghi giảm A/R...

Stock option

Tiền thu đc khi bán stock option => tăng income 
mặt khác:
khi mar. price tăng => option exercised càng nhiều => option demanded càng lớn



=> (hic giải thích hơi ngu. cần fải xem lại đã)

Buy back stock
Khi number of outstanding stock tăng lên => diluted EPS bị giảm nhiều so với basic EPS
=> để giảm tình trạng này: buy back stock.
Tuy nhiên, constraint của method này là:
no. of outstanding stock tăng khi option exercised
=> dùng tiền thu đc khi phát hành stock option để buy back.
nhưng stock option lại thường chỉ exercised khi mà mar. price tăng => price of stock bought back higher!

No comments:

Post a Comment